Các vấn đề liên quan đến căn tính Công khai thiên hướng tình dục

Công khai tính dục thường được miêu tả như một quá trình dần dần hoặc một cuộc hành trình kéo dài.[1] Điều này nhằm mục đích bao hàm cả quá trình tự nhận thức và thừa nhận bản dạng giới, thể hiện giới hoặc và xu hướng tính dục bất tuân định chuẩn hóa dị tính (non-heteronormative sexual orientation) của bản thân. Giai đoạn đầu này bao gồm quá trình tự vấn hoặc một nhận thức sâu sắc về bản thân,[15] thường được gọi là "công khai tính dục với chính mình" và là khởi đầu của sự tự chấp nhận bản thân. Nhiều người thuộc cộng đồng LGBT nói rằng giai đoạn này của họ bắt đầu ở tuổi vị thành niên hoặc thời thơ ấu, khi họ lần đầu tiên nhận thức được xu hướng tính dục của mình đối với những người cùng giới tính. Công khai tính dục được coi là một quá trình một phần khác là do nhu cầu hoặc mong muốn lặp đi lặp lại được công khai xu hướng tính dục trong những môi trường hoặc tình huống mới, trong đó người thuộc cộng đồng LGBT được mặc định là người dị tính hoặc hợp giới, chẳng hạn như tại môi trường công sở mới hoặc khi làm quen với người mới. Một phương pháp tham khảo chính cho những người sắp công khai xu hướng tính dục bao gồm việc sử dụng góc nhìn hướng nội/hướng ngoại. Một số người cho rằng với phương pháp này, họ có thể giữ bí mật về căn tính và xu hướng tính dục của bản thân, đồng thời tách biệt chúng với ngoại hình của họ. Điều này không đơn giản như người ta thường nghĩ, như Diana Fuss (1991) lập luận, “tất nhiên, vấn đề với quan điểm nhìn nhận nội tâm/công khai... là những luận điệu như vậy che giấu thực tế rằng hầu hết chúng ta đồng thời đều hướng nội và hướng ngoại.”

Sự phát triển của bản dạng LGBT

Mỗi câu chuyện công khai tính dục là một người cố gắng chấp nhận nhân dạng và xu hướng tính dục của bản thân.[16] Một số mô hình đã được tạo ra để miêu tả công khai tính dục như một quá trình phát triển căn tính của người đồng tính nam và nữ, ví dụ Dank, 1971; Cass, 1984; Coleman, 1989; Troiden, 1989. Trong những mô hình này, mô hình căn tính Cass do Vivienne Cass thiết lập được chấp nhận rộng rãi nhất.[17] Mô hình này vạch ra sáu giai đoạn riêng biệt mà mỗi cá nhân đã công khai tính dục thành công đều phải trải qua: sự rối loạn căn tính, sự so sánh căn tính, sự dung nạp căn tính, sự chấp nhận căn tính, sự tự hào về căn tính và sự hòa hợp căn tính. Tuy nhiên, không phải người nào thuộc LGBT nào cũng đi theo mô hình này. Ví dụ, nhiều thiếu niên LGBT nhận thức được và chấp nhận những ham muốn đồng tính hoặc bản dạng giới ở tuổi dậy thì tương tự với cách những thiếu niên dị tính nhận thức được xu hướng tính dục của họ, nói cách khác là không có bất kỳ khái niệm khác biệt, dị nghị hoặc xấu hổ về giới tính người thu hút họ. Bất kể là thiếu niên LGBT có hình thành bản dạng dựa trên mô hình hay không, độ tuổi điển hình mà thiếu niên ở Hoa Kỳ công khai tính dục đã giảm xuống. Học sinh cấp 3 và thậm chí học sinh cấp 2 dần công khai tính dục.[18][19][20]

Nghiên cứu nổi bật gần đây cho thấy rằng người đồng tính nam xuất thân từ gia đình sùng đạo thường công khai trực tuyến qua Facebook và blog vì việc này cung cấp khoảng cách cá nhân an toàn. Điều này mâu thuẫn sâu sắc với quan điểm phổ biến trong nghiên cứu mạng xã hội cho rằng hoạt động trực tuyến, đặc biệt là Facebook, có thể dẫn đến những kết quả tiêu cực về sức khỏe tâm lý như mức độ lo âu tăng. Tuy cần nghiên cứu thêm liệu những kết quả này có đủ khái quát để áp dụng cho số người đông hơn hay không, những phát hiện gần đây đã mở ra khả năng rằng trải nghiệm trực tuyến của người đồng tính nam có thể khác với người dị tính nam và có thể đem lại nhiều lợi ích về sức khỏe tâm lý hơn là gây ra hậu quả xấu.[21]

Căn tính của người chuyển giới và công khai tính dục

Có nhiều sự khác biệt giữa các cá nhân chuyển giới về việc lựa chọn thời điểm, quyết định tiết lộ và cách tiết lộ việc mình là người chuyển giới với gia đình, bạn bè thân thiết và những người khác. Sự phổ biến của phân biệt đối xử[22] và bạo lực đối với người chuyển giới (ví dụ, ở Hoa Kỳ, khả năng người chuyển giới trở thành nạn nhân của bạo lực cao hơn 28%)[23] có thể khiến công khai tính dục trở thành một quyết định mạo hiểm. Lo sợ những hành vi trả thù như bị đuổi khỏi nhà bố mẹ khi chưa đủ tuổi trưởng thành là nguyên nhân khiến người chuyển giới không công khai tính dục với gia đình cho tới khi họ trưởng thành.[24] Sự hoang mang và sự thiếu chấp nhận của bố mẹ đối với con là người chuyển giới có thể dẫn đến việc bố mẹ xem bản dạng giới mới tiết lộ là một “giai đoạn” hoặc nỗ lực thay đổi con mình trở lại “bình thường” bằng cách sử dụng dịch vụ sức khỏe tâm lý để thay đổi bản dạng giới của đứa trẻ.[25][26]

Internet có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình công khai của những người chuyển giới. Một số xuất hiện dưới dạng nhận dạng trực tuyến trước tiên, mang đến cơ hội trải nghiệm ảo và an toàn trước khi gặp rủi ro trừng phạt xã hội trong thế giới thực.[27][28] Tuy nhiên, trong khi nhiều người chuyển giới tìm thấy đồng minh trực tuyến mà họ có thể không có trong đời thực, những người khác lại gặp phải sự bắt nạt và quấy rối khi công khai trên mạng. Theo một nghiên cứu được công bố bởi Blumenfeld và Cooper vào năm 2012,[29] thanh niên LGBT báo cáo hành vi bắt nạt trực tuyến ít hơn 22% do các yếu tố như cha mẹ không tin hoặc không hiểu các em, hoặc sợ phải công khai tính dục để giải thích sự việc. Điều này càng cho thấy những rào cản mà các cá nhân chuyển giới có thể gặp phải khi công khai tính dục.

Việc công khai tính dục với tư cách người chuyển giới có thể phức tạp hơn so với một người thuộc xu hướng tính dục thiểu số. Những thay đổi có thể nhìn thấy có thể xảy ra như một phần của việc thay đổi bản dạng giới của một người - chẳng hạn như thay đổi tủ quần áo, phẫu thuật chuyển đổi giới tính và thay đổi tên - có thể khiến việc công khai với người khác trở thành một điều bắt buộc. Hơn nữa, những thứ đi kèm với việc chuyển đổi giới tính có thể có tác động về tài chính, thể chất, y tế và pháp lý. Ngoài ra, các cá nhân chuyển giới có thể chịu định kiến ​​và bị từ chối bởi những người thuộc xu hướng tính dục thiểu số và những người khác trong cộng đồng LGBT, thêm vào đó là định kiến đối với người thuộc cộng đồng LGBT mà họ có thể phải đối mặt với nền văn hóa chính thống. Điều này có thể gây cảm giác bị cô lập cho những cá nhân chuyển giới.[28]